Có ba loại termonomer chính được sử dụng trong sản xuất EPDM là ethylidene norbornene (ENB), 1,4 hexadiene (1,4 HD) và dicyclopentadiene (DCPD). Mặc dù mục đích chính của ba loại termonomer này là thêm các nối đôi không bão hòa vào mạch chính EPDM, tạo thành các vị trí lưu hóa, nhưng do cấu trúc hóa học của chúng khác nhau nên cao su EPDM tạo thành bị ảnh hưởng đáng kể.

Loại termonomer được sử dụng rộng rãi nhất và quan trọng nhất là ethylidene norbornene (ENB). Mặc dù ENB là loại đắt nhất, nhưng nó dễ kết hợp vào mạch chính EPDM và liên kết đôi thêm vào được lưu hóa bằng lưu huỳnh dễ dàng nhất. Đặc tính này cũng làm cho EPDM loại ENB dễ đồng kết mạng với các vật liệu đàn hồi diene khác. Ngoài ra, có thể thay đổi cấu trúc của EPDM loại ENB là mạch thẳng hoặc phân nhánh tương đối dễ dàng bằng cách thay đổi điều kiện tổng hợp polymer.

Một loại termonomer khác là 1,4 hexadiene (1,4 HD). EPDM chứa 1,4 HD có vận tốc kết mạng chậm hơn ENB nhưng có những tính chất khác nổi bật hơn, tiêu biểu là tính kháng nhiệt rất tốt. EPDM loại 1,4 HD thường có cấu trúc thẳng và có đặc tính gia công rất tốt.

Loại termonomer còn lại là dicyclopentadiene (DCPD). Các ưu điểm chính của DCPD là chi phí thấp của nó và sự kết hợp tương đối dễ dàng, tương tự với ENB. Tuy nhiên trong 3 loại, EPDM loại DCPD có vận tốc kết mạng chậm nhất. Tất cả polymer EPDM loại DCPD đều phân nhánh do khả năng polymer hóa nhẹ của liên kết đôi thứ hai của DCPD. Điều này tạo nên tính kháng ozon rất tốt cho EPDM loại DCPD và các hỗn hợp cao su diene với nó.

Tham khảo từ tài liệu Rubber Technology – Third Edition, Maurice Morton, Springer, 1999, trang 264 – 265

(vtp-vlab-caosuviet)




Share |





@Copyright

Công ty TNHH Cao Su Việt
giữ bản quyền hình ảnh sản phẩm trong trang web này. Vui lòng không sao chép.